XUẤT KHẨU NÔNG SẢN VẪN LÀ ĐIỂM SÁNG TRONG BỐI CẢNH NỀN KINH TẾ KHÓ KHĂN DO COVID-19
Năm 2020, đại dịch Covid-19 gây ảnh hưởng đến hàng loạt các thị trường xuất khẩu lớn của nước ta. Do nhiều quốc gia đóng cửa biên giới, hạn chế nhập khẩu, nên lượng xuất khẩu nông sản năm 2020 suy giảm nhẹ, đạt 18,5 tỷ USD (giảm 0,8% so với năm 2019). Xuất khẩu thủy sản đạt 8,4 tỷ USD (giảm 0,9% so với năm 2019). Tuy nhiên, nhờ xuất khẩu lâm sản và đồ gỗ tăng mạnh (đạt trên 13,1 tỷ USD, tăng 13,4% so với năm 2019), nên tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản năm 2020 vẫn tăng so vớii năm 2019 (đạt 41,2 tỷ USD, tăng 2,6% so với năm 2019).
Trong năm 2020, thương mại mậu biên giảm mạnh do Trung Quốc đã quyết định kéo dài thời gian đóng cửa các chợ biên giới và tiếp tục tạm dừng hoạt động trao đổi hàng hóa cư dân biên giới. Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng nông sản sang Trung Quốc giảm: rau, quả đạt 1,84 tỷ USD, giảm 25,7%; thủy sản đạt 1,37 tỷ USD, giảm 3,3% so với cùng kỳ năm 2019. Bên cạnh đó, số lượng đơn hàng giảm cùng với giảm giá khiến cho giá trị xuất khẩu của một số mặt hàng xuất khẩu chiến lược giảm đáng kể so với năm 2019. Các mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch giảm mạnh, gồm: cà phê đạt 2,71 tỷ USD (giảm 4,2%), điều đạt 3,19 tỷ USD (giảm 3%); chè đạt 220 triệu USD (giảm 6,9%); tiêu đạt 670 triệu USD (giảm 6,8%); rau quả đạt 3,26 tỷ USD (giảm 13%); cá tra đạt 1,49 tỷ USD (giảm 25,5%); tôm sú đạt 575 triệu USD (giảm 16,3%)...
Đại dịch Covid-19 không chỉ gây ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu mà còn làm đứt đoạn các chuỗi cung ứng nông nghiệp, đặc biệt những ngành phải nhập khẩu đầu vào nhiều. Năm 2020, nhập khẩu vật tư nông nghiệp, như: thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu giảm 10,6%; phân bón giảm 9,9%; thuốc trừ sâu và nguyên liệu giảm 25,6%. Nhập khẩu cây, con giống từ Trung Quốc, Mỹ, Liên minh châu u (EU) và nhiều nơi khác gặp khó khăn. Nguồn cung thiếu hụt đã làm tăng giá nhiều loại thức ăn chăn nuôi trong nước.
=> KHÓ KHĂN GẶP PHẢI
Năm 2021 được coi là dấu mốc quan trọng khi các loại trái cây, như: vải, nhãn tươi, được xuất khẩu trực tiếp sang các nước Tây u, như: Hà Lan, Bỉ, Pháp, Đức, Anh..., bởi các công ty Việt Nam, sau khi được hỗ trợ kết nối, giới thiệu với các công ty nhập khẩu. Thậm chí, việc phân phối quả vải tươi không chỉ trong hệ thống cửa hàng/siêu thị châu Á mà đã chính thức thâm nhập vào các chuỗi siêu thị thực phẩm tại châu u. Có thể kể tới lô hàng 1 tấn vải thiều đầu tiên gắn tem truy xuất nguồn gốc itrace247 do Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Công Thương) phát triển được nhập khẩu chính ngạch vào Pháp qua đường hàng không. Đơn hàng này xuất xứ từ vùng trồng Thanh Hà, tỉnh Hải Dương được Công ty TNHH Sản xuất Thương mại Dịch vụ Rồng Đỏ đưa sang Pháp thành công, tận dụng được lợi thế về ưu đãi thuế quan từ EVFTA. Trong năm 2021, thị trường nhập khẩu nông sản EU bắt đầu khởi sắc do tình hình dịch Covid-19 được kiểm soát. Chính phủ các nước thành viên EU thúc đẩy mở rộng việc tiêm vắc xin, áp dụng quy định giấy thông hành vắc xin, nới lỏng quy định đi lại, mở cửa một phần dịch vụ ăn uống, du lịch. Đây là thời điểm thuận lợi để đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng nông sản của Việt Nam sang thị trường này.
Năm 2021, cho dù bối cảnh dịch Covid-19 vẫn diễn biến phức tạp, nhiều hoạt động sản xuất, xuất khẩu đứt gãy, nhưng bằng sự chủ động, linh hoạt, xuất khẩu nông sản vẫn là điểm sáng trong bức tranh kinh tế năm nay. Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tháng 10/2021, kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản ước đạt trên 3,4 tỷ USD, giảm 15,6% so với tháng 10/2020, nhưng tăng 4,2% so với tháng 9/2021.
Tính chung 10 tháng năm 2021, kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản ước đạt gần 38,8 tỷ USD, tăng 13,1% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, xuất khẩu nhóm nông sản chính ước đạt gần 17,4 tỷ USD, tăng 12,7%; lâm sản chính đạt khoảng 12,8 tỷ USD, tăng 22,3%; thủy sản đạt gần 6,9 tỷ USD, giảm 0,8%; chăn nuôi ước đạt 359 triệu USD, tăng 6,1%; nhóm đầu vào sản xuất khoảng 1,4 tỷ USD, tăng 22,3%. Nhiều sản phẩm/nhóm sản phẩm có giá trị xuất khẩu tăng, gồm: cà phê, cao su, gạo, nhóm hàng rau quả, hồ tiêu, hạt điều, sắn và sản phẩm từ sắn, sản phẩm chăn nuôi, tôm; sản phẩm gỗ; mây, tre, cói thảm; quế… Trong đó, cao su, hạt điều, sắn và sản phẩm từ sắn, tăng cả khối lượng và giá trị xuất khẩu. Cụ thể, xuất khẩu cao su tăng 13,9% về khối lượng và tăng 46,55% về giá trị; xuất khẩu hạt điều tăng 14,1% về khối lượng và tăng 13,5% về giá trị; xuất khẩu sắn và sản phẩm sắn tăng 7,7% về khối lượng và tăng 21,2% về giá trị. Riêng hồ tiêu dù khối lượng xuất khẩu đạt 783 nghìn tấn, giảm 5,7%, nhưng nhờ giá xuất khẩu bình quân tăng 52,9% nên giá trị xuất khẩu vẫn tăng 44,2%; cà phê khối lượng giảm 5,1%, nhưng giá trị xuất khẩu vẫn tăng 4,1%. Riêng mặt hàng chè, xuất khẩu giảm cả khối lượng và giá trị xuất khẩu, dù giá xuất khẩu bình quân tăng.
=> ĐỂ THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU NÔNG SẢN TRONG THỜI GIAN TỚI
Điều đáng mừng là giá xuất khẩu bình quân 10 tháng nhiều mặt hàng tăng. Cụ thể, cao su đạt 1.680 USD/tấn, tăng 4,1%; chè đạt 1.665,8 USD/tấn, tăng 28,7%; cà phê đạt 1.901,8 USD/tấn, tăng 9,7%; gạo đạt 528,5 USD/tấn, tăng 7,1%; hồ tiêu đạt 3.434,2 USD/tấn, tăng 71,3%....
Thống kê cho thấy, tháng 10/2021, thị trường xuất khẩu nông, lâm, thủy sản lớn nhất là Hoa Kỳ đạt trên 10,8 tỷ USD, chiếm 27,9% thị phần; trong đó, kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng gỗ và sản phẩm gỗ chiếm tới 68,4% tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản của Việt Nam sang thị trường này. Đứng thứ 2 là thị trường Trung Quốc gần 7,5 tỷ USD, chiếm 19,3% thị phần, với kim ngạch xuất khẩu nhóm rau quả chiếm tới 23,4% tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản. Thứ 3 là thị trường Nhật Bản với giá trị xuất khẩu đạt trên 2,6 tỷ USD (chiếm 6,8%). Thứ 4 là thị trường Hàn Quốc với giá trị xuất khẩu đạt khoảng 1,7 tỷ USD.
=> TIN TỨC QUANH TA
=> TRÁI CÂY VIỆT NAM