VẪN CÒN NHIỀU KHÓ KHĂN, THÁCH THỨC
Mặc dù vẫn đạt mức tăng trưởng khá trong 10 tháng năm 2021, song xuất khẩu nông sản Việt Nam vẫn đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức.
Một là, sự đứt quãng trong hoạt động vận chuyển, giao thương:
Do tác động của các lệnh phong tỏa, hạn chế đi lại - giao thương, hoạt động logistics trong chuỗi giá trị nông nghiệp gặp nhiều khó khăn. Quá trình vận chuyển, thông quan hàng hóa kéo dài hơn so với trước đây do các yêu cầu kiểm soát dịch bệnh theo quy trình chặt chẽ. Hàng hóa tồn kho, thời gian thông quan kéo dài đã làm tăng chi phí logistics. Trung bình chi phí logistics trong chuỗi giá trị nông nghiệp chiếm khoảng 20%-23% tổng chi phí hàng nông sản xuất khẩu (riêng mặt hàng rau, quả tươi chi phí này lên tới 60%-70%). Năm 2020, chi phí logistics tăng cao, giá cước container biến động mạnh, tùy từng thị trường mà tăng 2-3 lần so với trước dịch. Chi phí logistics tăng chủ yếu do chi phí vận chuyển cao, thiếu container rỗng, các phụ phí và phí địa phương cao do các hãng vận chuyển nước ngoài áp vào cho chủ hàng, hạn chế về cảng và kết cấu hạ tầng, các tỉnh thành đưa ra các phí hạ tầng mới, chi phí về kiểm tra chuyên ngành [5].
Việc hạn chế giao thông, tắc nghẽn trong vận chuyển gây khó khăn cho việc mua bán sản phẩm kịp thời, dẫn đến nhiều loại nông sản bị hư hỏng hoặc phát sinh chi phí để duy trì, bảo quản nông sản, ví dụ như: chi phí thức ăn nuôi cá trong thời gian chờ tìm nguồn tiêu thụ. Nông dân cũng thận trọng hơn và có tâm lý chờ đợi trước khi đầu tư vụ mới. Kết quả là suy giảm sản lượng, chất lượng và thu nhập của nông dân.
Hai là, công nghệ chế biến chưa đáp ứng được nhu cầu
Theo ông Hồ Thanh Bình, Trưởng khoa Nông nghiệp - Tài nguyên thiên nhiên, Trường Đại học An Giang, Đại biểu Quốc hội Khoá XIV, nhiều năm qua, công nghiệp chế biến đã làm nâng cao giá trị hàng nông sản Việt Nam, góp phần xây dựng nền nông nghiệp hiện đại. Tuy nhiên, đầu tư cho công nghệ chế biến còn chưa tương xứng với tốc độ phát triển của ngành nông nghiệp. Hiện nay, từ 20% đến 30% nông sản trong nước được chế biến xuất khẩu, còn lại chủ yếu xuất khẩu dưới dạng thô, nên giá trị gia tăng vẫn thấp hơn so với các nước khác.
=>Thúc đẩy xuất khẩu nông sản Việt Nam trong bối cảnh Covid-19
Ba là, chuỗi liên kết còn lỏng lẻo
Thực tế cho thấy, việc hình thành chuỗi liên kết để kiểm soát chặt từ khâu sản xuất, chế biến đến tiêu thụ sản phẩm với sự tham gia tích cực của “4 nhà” nhà doanh nghiệp, nhà nông, nhà khoa học và Nhà nước ở Việt Nam vẫn còn lỏng lẻo. Việc kết nối các khâu của chuỗi, giữa cơ sở sản xuất với cơ sở kinh doanh còn chưa thống nhất, chưa ký kết được những hợp đồng ổn định lâu dài, nên sản phẩm không đồng nhất, không đáp ứng nhu cầu của thị trường. Đó là chưa kể, do sản xuất nông nghiệp của nước ta vẫn còn theo hướng tự phát, nhỏ lẻ và vẫn còn phụ thuộc nhiều vào thuốc bảo vệ thực vật, nên việc xuất khẩu vẫn gặp những trở ngại nhất định về rào cản kỹ thuật.
Bốn là, chất lượng nông sản xuất khẩu Việt Nam còn thấp
Thực tế cho thấy, chất lượng nông sản xuất khẩu thiếu ổn định, trong khi yêu cầu của các nước nhập khẩu ngày càng cao, nhất là các yêu cầu về vệ sinh, an toàn thực phẩm và truy xuất nguồn gốc, làm cho nhiều đơn hàng xuất khẩu bị trả về do bị cho là chưa đạt yêu cầu trong quá trình sản xuất và chế biến. Tỷ lệ sản phẩm sản xuất theo các tiêu chuẩn bền vững, chứng nhận quốc tế còn ít, chỉ đạt khoảng 10%. Hiện, diện tích sản xuất áp dụng thực hành nông nghiệp tốt (GAP) và được cấp chứng nhận GAP mới chiếm khoảng 5%. Tỷ lệ sản phẩm có thương hiệu còn ít (dưới 20% số mặt hàng xuất khẩu), mặc dù có nhiều mặt hàng nông sản xuất khẩu ở vị trí dẫn đầu thế giới.
=> ĐỂ THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU NÔNG SẢN TRONG THỜI GIAN TỚI
Trong tháng 9/2021, EU cũng đã đưa ra cảnh báo đối với 2 sản phẩm xuât skhaaru của Việt Nam do chứa chất cấm hoặc vượt dư lượng cho phép, vi phạm các quy định về an toàn thực phẩm. Đó là sản phẩm đùi ếch đông lạnh của một doanh nghiệp ở tỉnh Tiền Giang và quả bưởi của một doanh nghiệp ở tỉnh Bạc Liêu. Trước đó, tháng 8/2021, EU cũng đưa ra cảnh báo đối với sản phẩm mì khô vị bò gà và mì tôm Hảo Hảo chua cay do chứa chất ethylene oxide. Điều này là hạn chế lớn, làm giảm sức cạnh tranh sản phẩm, đồng thời hạn chế sự tham gia sâu vào hệ thống phân phối bán lẻ của các nước nhập khẩu, đặc biệt là các thị trường khó tính như EU.
Năm là, chi phí logistics còn cao, hệ thống logistics chưa đáp ứng được nhu cầu
Chi phí logistics của Việt Nam còn cao, chiếm 12% giá thành sản phẩm ngành thủy sản, chiếm 23% giá thành đồ gỗ, chiếm 29% giá thành rau quả, chiếm 30% giá thành gạo. Chi phí logistics phục vụ phát triển nông nghiệp ở Việt Nam cao hơn Thái Lan 6%, Malaysia 12% và cao hơn Singapore 300%. Các dịch vụ logistics giá thấp kèm theo tình trạng thiếu tiêu chí kiểm soát chất lượng vệ sinh, an toàn thực phẩm, do đó thường có độ tổn thất cao do hư hỏng, nhiễm khuẩn. Tỷ lệ tổn thất trung bình trong nông nghiệp hiện từ 25%-30%, trong đó thủy sản 35%, rau quả và trái cây có thể lên đến 45%.
Hệ thống logistics chưa đáp ứng được nhu cầu xuất, nhập khẩu hàng hóa. Hạ tầng giao thông Việt Nam lạc hậu, chưa xác định hệ thống cảng cửa ngõ quốc gia (gateway). Hệ thống kho bãi và chuỗi cung ứng lạnh còn hạn chế, chưa được vận hành hiệu quả. Kết cấu hạ tầng và dịch vụ logistics phục vụ thương mại biên giới hạn chế, kho bãi còn đơn sơ, các dịch vụ logistics hỗ trợ xuất, nhập khẩu qua đường biên còn đơn giản, chưa tạo giá trị gia tăng cho mặt hàng nông sản Việt Nam.
=> TIN TỨC QUANH TA
=> TRÁI CÂY VIỆT NAM